Trong bối cảnh hiện nay, ngân hàng cần hài hòa giữa các yếu tố: lãi suất cho vay thấp để hỗ trợ nền kinh tế; lãi suất đầu vào hợp lý để giữ tiền ở lại hệ thống và duy trì chênh lệch lãi suất tiền đồng so với đô la Mỹ trong tầm kiểm soát; đồng thời tạo ra đủ lợi nhuận, tăng dự phòng đối với rủi ro nợ xấu tăng lên.
ĐIỂM TIN KINH TẾ – TÀI CHÍNH
1. Tin Quốc tế
Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) chính thức hạ lãi suất
Trong cuộc họp ngày 6/6, ECB nhận định dù đã hạ nhiệt, lạm phát có thể tiếp tục cao hơn mức mục tiêu trong năm tới. Lạm phát toàn phần trung bình có thể ở mức 2.5% năm 2024, 2.2% năm 2025 và 1.9% vào năm 2026. Bên cạnh đó, lạm phát lõi cũng được dự báo lần lượt hạ nhiệt về 2.8%; 2.2% và 2.0% ở các năm tương ứng. Tăng trưởng kinh tế khu vực Eurozone được kỳ vọng ở mức 0.9% trong năm nay, 1.4% năm 2025 và 1.6% năm 2026. Dựa trên những dữ liệu hiện tại, ECB quyết định giảm 25 điểm cơ bản đối với bộ 3 lãi suất chính sách. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay cận biên và lãi suất tiền gửi tại ECB lần lượt giảm xuống còn 4.25%; 4.5% và 3.75%, có hiệu lực từ ngày 12/6/2024.
Một số chỉ số kinh tế quan trọng của Mỹ trong tuần qua
Viện Quản lý Cung ứng Mỹ (ISM) cho biết chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất tại nước này ở mức 48.7% trong tháng Năm, giảm nhẹ từ mức 49.2% của tháng trước đó. Đây là tháng thứ 2 liên tiếp PMI sản xuất giảm kể từ lần đầu vượt lên 50% trong tháng Ba.Tại thị trường lao động, nước Mỹ tạo ra 272 nghìn việc làm phi nông nghiệp mới trong tháng 5, cao hơn mức 165 nghìn của tháng 4. Mặc dù vậy, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng vừa qua tăng nhẹ lên mức 4.0%. Về thu nhập, tiền lương theo giờ của người lao động Mỹ tăng 0.4% so với tháng trước trong tháng 5, nối tiếp đà tăng 0.2% của tháng trước đó. So với cùng kỳ năm 2023, thu nhập bình quân theo giờ tăng khoảng 4.1%.
Thị trường tiếp tục chờ đợi chỉ số giá tiêu dùng CPI được công bố vào tối ngày 12/6, tiếp đó là kết quả cuộc họp chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được công bố vào sáng sớm ngày 13/6 theo giờ Việt Nam.
2. Tin Trong nước
Thế khó của chính sách tiền tệ thời gian tới
Trong ngắn hạn, áp lực tỷ giá vẫn được dự báo sẽ còn cao trong một khoảng thời gian nữa, với áp lực chung đến từ nhu cầu đô la Mỹ cho nhập khẩu, việc Fed giữ lãi suất đô la Mỹ cao và áp lực giữ dòng tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn sẽ được gia hạn đến hết năm 2024. Do đó, một số doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn mới, nên nhu cầu vốn để cho vay dự kiến sẽ tăng hơn trong thời gian tới. Hai, các NHTM sẽ phải cố gắng tăng các khoản dự phòng rủi sau khi Thông tư 02 hết hạn. Điều này khiến cho lãi suất khó mà giảm nhiều được nữa (nhu cầu vốn tăng, nhu cầu duy trì biên lãi suất sẽ kéo mặt bằng lãi suất lên). Hơn nữa, NHNN cũng có sức ép phải duy trì mặt bằng lãi suất tiền đồng không quá xa với đô la Mỹ.
Tuy nhiên, giữ mặt bằng lãi suất tiền đồng cao hơn lại mâu thuẫn với yêu cầu của Chính phủ giảm 1-2% lãi suất cho vay để hỗ trợ nền kinh tế. Lúc này xuất hiện ba lợi ích khó mà “hài hòa” được: (1) lãi suất cho vay thấp để hỗ trợ nền kinh tế; (2) lãi suất đầu vào không thấp để khuyến khích tiền ở lại NHTM và duy trì chênh lệch lãi suất tiền đồng so với đô la Mỹ trong tầm kiểm soát; (3) NHTM có đủ lợi nhuận để tạo ra của để dành, tăng dự phòng đối với rủi ro nợ xấu tăng lên.
Thế khó này có thể sẽ dễ thở hơn vào các tháng cuối năm khi áp lực tỷ giá được dự đoán sẽ giảm bớt.
Lãi suất tiết kiệm tiếp tục tăng do đâu?
Trong quý I năm nay, lãi suất huy động được các ngân hàng điều chỉnh xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, bước sang quý II, xu hướng này đã đảo chiều, nhiều ngân hàng điều chỉnh lãi suất huy động theo hướng tăng. Biên độ tăng lớn nhất thuộc về các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước mức tăng khiêm tốn hơn, tập trung ở một số kỳ hạn dài với số tiền gửi lớn. Việc một số ngân hàng tăng lãi suất gần đây có thể đến từ một vài lý do. Cụ thể, trong bối cảnh thị trường vàng và tỷ giá nóng lên, lượng tiền gửi ngân hàng của người dân có thể chuyển hướng và sụt giảm khiến các ngân hàng phải tăng lãi suất để tăng hấp dẫn cho kênh đầu tư này.
Ngoài ra, lãi suất tiết kiệm tăng có thể là tín hiệu pha trộn giữa tích cực và tiêu cực. Khi lãi suất có thể do hoạt động kinh tế mạnh mẽ hơn, cá nhân và doanh nghiệp vay nhiều hơn có nhu cầu tín dụng nhiều hơn, khiến các ngân hàng có xu hướng tăng lãi suất để thu hút tiền gửi, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng. Mức tăng của lãi suất sẽ còn phụ thuộc vào các hoạt động kinh tế. Trường hợp các doanh nghiệp đi vay nhiều thì lãi suất sẽ tăng mạnh hơn còn trường hợp sức khỏe doanh nghiệp vẫn ở mức lưng chừng như năm 2023, có thể lãi suất sẽ chỉ tăng đôi chút.
THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC
1. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng
Lãi suất VND: tăng mạnh ở tất cả các kỳ hạn. Chốt ngày 7/6, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 4.10% (+1.17%); 1 tuần 4.38% (+0.68%); 2 tuần 4.52% (+0.07%); 1 tháng 4.83% (-0.17%) so với tuần trước đó.
Lãi suất USD: ít biến động. Phiên cuối tuần 7/6, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 5.30% (+0.01%); 1 tuần 5.35% (+0.01%); 2 tuần 5.38% (-0.02%) và 1 tháng 5.43% (+0.02%) so với tuần trước đó.
Thời hạn |
Kết tuần 4 tháng 5 (24/05/24) | Kết tuần 5 tháng 5 (31/05/24) | Kết tuần 1 tháng 6 (07/06/24) | Biến động |
Qua đêm |
5.15 | 2.93 | 4.10 | +1.17% |
1 tuần |
5.28 | 3.70 | 4.38 |
+0.68% |
2 tuần | 5.35 | 4.45 | 4.52 |
+0.07% |
1 tháng | 5.45 | 5 | 4.83 |
-0.17% |
Bảng: Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng
Nguồn: Website Ngân hàng Nhà Nước
Dự báo thị trường tiền tệ
- Lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại lớn sẽ có thể nhích thêm 0.7-1%. Tuy nhiên, lãi suất đầu ra sẽ vẫn duy trì ở mặt bằng hiện tại hoặc nhích lên nhẹ trong bối cảnh các cơ quan quản lý và ngân hàng thương mại hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn.
2. Thị trường Trái phiếu chính phủ
Trên thị trường sơ cấp: Ngày 5/6, KBNN gọi thầu 9,000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, khối lượng trúng thầu chỉ đạt 2,120 tỷ đồng, tương ứng 24%. Trong đó, kỳ hạn 10 năm huy động được 2,090 tỷ đồng/3,000 tỷ đồng gọi thầu và kỳ hạn 30 năm huy động được 30 tỷ đồng/1,000 tỷ đồng gọi thầu. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 10 năm là 2.71% (+0.05%) và 30 năm là 3.10% (không đổi) so với phiên đấu thầu trước.
Trên thị trường thứ cấp: Từ 3-7/6, giá trị giao dịch Outright và Repos đạt trung bình 16,774 tỷ đồng/phiên, tăng mạnh so với mức 9,303 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua giảm nhẹ ở các kỳ hạn ngắn và tăng nhẹ ở kỳ hạn 30 năm. Chốt phiên 7/6, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1.87% (-0.004%); 2 năm 1.88% (-0.004%); 3 năm 1.90% (-0.004%); 5 năm 2.0% (-0.04%); 7 năm 2.30% (-0.02%); 10 năm 2.81% (-0.04%); 15 năm 3.0% (-0.02%); 30 năm 3.19% (+0.002%) so với tuần trước đó.
Kỳ hạn |
Lãi suất trúng thầu TPCP ngày 05/06 (KBNN) |
10 năm |
2.71% (+0.05%) |
30 năm |
3.10% (không đổi) |
Kỳ hạn |
Khối lượng gọi thầu KBNN ngày 12/6 (tỷ VND) |
5 năm |
1,000 |
10 năm |
3,000 |
15 năm |
2,000 |
20 năm |
500 |
30 năm |
500 |
Bảng: Kết quả trúng thầu và khối lượng gọi thầu trên thị trường sơ cấp
Dự báo thị trường TPCP
- Tuần qua, tỷ lệ trúng thầu trên thị trường sơ cấp giảm mạnh tiếp tục duy trì ở mức thấp kể từ đầu năm, đi kèm lãi suất trúng thầu tiếp tục tăng ở kỳ hạn ngắn và không đổi ở kỳ hạn dài so với tuần trước đó.
- Thị trường thứ cấp ghi nhận giá trị giao dịch giảm nhẹ so với tuần trước đó đi kèm mức lợi suất giảm ở hầu hết các kỳ hạn và không đổi ở kỳ hạn 30 năm.
- Thị trường sơ cấp tiếp tục diễn biến ảm đạm nhất kể từ đầu năm, thị trường thứ cấp giao dịch sôi động trở trở lại.
3. Thị trường mở
Thị trường mở tuần từ 3-7/6, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 15,000 tỷ đồng, lãi suất giữ ở mức 4.5%. Có 1,221.31 tỷ đồng trúng thầu và 70,082.72 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua. NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất ở tất cả các phiên. Hết tuần, có tổng cộng 28,460 tỷ đồng trúng thầu, lãi suất trúng thầu giữ ở mức 4.25%; có 33,890 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn trong tuần qua.
Như vậy, NHNN hút ròng 63,431.41 tỷ đồng từ thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 12,905.41 tỷ đồng và khối lượng tín phiếu lưu hành ở mức 67,360 tỷ đồng.
4. Thị trường ngoại hối
Trong tuần qua, tỷ giá được điều chỉnh giảm đan xen.
- Tỷ giá trung tâm được NHNN được điều chỉnh tăng- giảm đan xen. Chốt ngày 7/6, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24,241 VND/USD, giảm 20 đồng so với phiên ngày cuối tuần trước đó.
- Tỷ giá VND/USD liên ngân hàng giảm. Kết thúc phiên 7/6, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 25,400 VND/USD, giảm 41 đồng so với phiên với phiên ngày cuối tuần trước đó.
- Tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do giảm trong tuần. Chốt phiên 7/6, tỷ giá tự do giảm 195 đồng ở chiều mua vào và giảm 185 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25,580 VND/USD và 25,670 VND/USD.
Tỷ giá ngày 03/6/2024 | Tỷ giá ngày 10/06/2024 | ||||
Ngoại tệ |
Mua | Bán | Mua | Bán | Biến động |
USD |
23,400 | 25,450 | 23,400 | 25,450 | – |
EUR |
25,016 | 27,650 | 24,819 | 27,432 | -218 |
JPY |
147 | 162 | 147 | 162 |
– |
GBP | 29,379 | 32,472 | 29,299 | 32,383 |
-89 |
CHF | 25,568 | 28,259 | 25,682 | 28,385 |
+126 |
AUD | 15,344 | 16,959 | 15,153 | 16,748 |
-211 |
CAD | 16,929 | 18,711 | 16,730 | 18,491 |
-220 |
Bảng: Tỷ giá giao dịch tham khảo tại Sở giao dịch NHNN
Nguồn: Website NHNN
Dự báo thị trường ngoại hối
- Tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng đã tăng hơn 5% tính từ đầu năm 2024 và áp lực tỷ giá ngày một lớn hơn với việc nhập siêu quay trở lại trong tháng 5.
- Trong ngắn hạn, áp lực tỷ giá vẫn được dự báo sẽ còn cao trong một khoảng thời gian nữa, với áp lực chung đến từ nhu cầu đô la Mỹ cho nhập khẩu, việc Fed giữ lãi suất đô la Mỹ cao và áp lực giữ dòng tiền tiết kiệm tại ngân hàng.
- Sức ép tỷ giá nhiều khả năng sẽ “nguội” dần về cuối năm. Điều này là có cơ sở vì về cuối năm, dòng tiền từ kiều hối, giải ngân FDI và xuất khẩu sẽ giúp cân bằng lại nhu cầu đô la Mỹ.
Quyền miễn trừ trách nhiệm
Tất cả những thông tin nêu trong báo cáo phân tích đều đã được thu thập. đánh giá với mức cẩn trọng tối đa có thể. Tuy nhiên. do các nguyên nhân chủ quan và khách quan từ các nguồn thông tin công bố. nhóm thực hiện báo cáo là Phòng Nguồn vốn và Đầu tư – Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình – không đảm bảo về tính xác thực của các thông tin được đề cập trong báo cáo phân tích cũng như không có nghĩa vụ phải cập nhật những thông tin trong báo cáo sau thời điểm báo cáo này được phát hành.