Chia sẻ:

06 Thứ năm, 25/05/2017 Tháng 9 này NĐT sẽ đón thêm sản phẩm mới – Covered Warrant

Lời bình: Tháng 6 tới đây, nhà đầu tư sẽ được trải nghiệm những sản phẩm đầu tiên của thị trường chứng khoán phái sinh. Tin vui chưa dừng ở đó khi tháng 9/2017, một sản phẩm cũng được chờ đợi nhiều năm sắp vận hành là chứng quyền có bảo đảm (Covered Warrant). Nhằm giúp cho nhà đầu tư có cái nhìn đầy đủ hơn về sản phẩm này, báo NDH.VN xin trích dẫn những kiến thức về sản phẩm chứng quyền có bảo đảm của Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) giới thiệu đến quý độc giả.

 

Chứng quyền có bảo đảm là gì?

 

Chứng quyền có bảo đảm là một sản phẩm phổ biến tại nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới với các tên gọi khác nhau như Covered Warrant (Anh, Đức, Úc, Canada), Derivative warrant (Hong Kong, Thái Lan), Structured warrant (Malaysia), Call/put Warrant (Đài Loan), Equity-linked warrant (Hàn Quốc).

 

Tại Việt Nam, Chứng quyền có bảo đảm được định nghĩa tại Nghị định 60/2015/CP-NĐ là chứng khoán có tài sản đảm bảo do công ty chứng khoán phát hành. Nhà đầu tư sẽ trả một khoản phí (premium) để sở hữu chứng quyền và được quyền mua hoặc bán chứng khoán cơ sở cho tổ chức phát hành chứng quyền đó theo mức giá đã được xác định trước, tại hoặc trước thời điểm đã được ấn định, hoặc được nhận khoản tiền chênh lệch giữa giá thực hiện và giá chứng khoán cơ sở tại thời điểm thực hiện.

 

Có hai loại chứng quyền cơ bản. Chứng quyền mua (call warrant) là cho phép người sở hữu có quyền nhưng không phải là nghĩa vụ được mua một chứng khoán cơ sở với mức giá được xác định trước vào hoặc trước ngày đáo hạn. Chứng quyền bán (put warrant) là cho phép người sở hữu có quyền nhưng không phải là nghĩa vụ được bán một chứng khoán cơ sở với mức giá được xác định trước vào hoặc trước ngày đáo hạn.

 

Trong đó, chứng khoán cơ sở là cổ phiếu đơn lẻ, chỉ số chứng khoán, ETF. Chứng quyền có bảo đảm được tổ chức giao dịch trên thị trường giao ngay (cash market) cùng với cổ phiếu, ETF, quyền mua, chứng quyền công ty với phương thức giao dịch hoàn toàn tương tự như cổ phiếu.

 

Bởi nhà đầu tư có quyền nhưng không phải là nghĩa vụ nên có quyền thực hiện hoặc không thực hiện quyền khi chứng quyền đáo hạn. Trường hợp nhà đầu tư không thực hiện, khoản lỗ tối đa đối với nhà đầu tư chính là khoản phí để sở hữu chứng quyền đó. Tuy nhiên, tổ chức phát hành lại có nghĩa vụ chuyển giao hoặc mua chứng khoán cơ sở hoặc thanh toán tiền mặt khi nhà đầu tư sở hữu chứng quyền có yêu cầu.

 

Khoản phí này được gọi là giá chứng quyền (phí chứng quyền) mà mỗi nhà đầu tư mua chứng quyền phải bỏ ra cho tổ chức phát hành chứng quyền (người bán chứng quyền). Khi niêm yết và giao dịch trên Sở Giao dịch Chứng khoán, giá chứng quyền chính là giá giao dịch trên thị trường và thông thường giá chứng quyền khá nhỏ so với giá trị thực của chứng khoán cơ sở.

 

Chính vì vậy, chứng quyền có bảo đảm còn là sản phẩm mang đặc tính “đòn bẩy” khá lớn, nhà đầu tư có thể nhận được khoản lợi nhuận tương đương như nắm giữ chứng khoán cơ sở đó dù bỏ ra mức phí thấp hơn nhiều. Song, đặc tính đòn bẩy cũng mang lại rủi ro vì thông thường giá trị của chứng quyền có bảo đảm tăng hoặc giảm nhanh hơn nhiều lần so với mức tăng hoặc giảm giá trị của chứng khoán cơ sở.

 

Mỗi chứng quyền có bảo đảm đều có tuổi thọ và kết thúc vào ngày được xác định trước trong tương lai và gọi là ngày đáo hạn. Đây chính là ngày cuối cùng để nhà đầu tư sở hữu chứng quyền thực hiện quyền.

 

Giá thực hiện là giá của chứng khoán cơ sở được xác định trước dùng để tính toán khi nhà đầu tư thực hiện quyền.

 

Khi chứng quyền có bảo đảm được phát hành, thông thường sẽ có thông tin về tỷ lệ chuyển đổi. Tỷ lệ chuyển đổi cho biết bao nhiêu chứng quyền cần có để được một chứng khoán cơ sở, tỷ lệ chuyển đổi có thể là 1:1 hoặc 3:1 hoặc tỷ lệ nào đó tùy thuộc vào tổ chức phát hành.

 

Giống như quyền chọn của chứng khoán phái sinh, chứng quyền có bảo đảm có thể được phát hành theo kiểu Châu Âu hay kiểu Mỹ. Chứng quyền kiểu Mỹ cho phép người sở hữu thực hiện quyền vào bất kỳ thời điểm nào, trước hoặc đến khi chứng quyền đáo hạn. Chứng quyền kiểu Châu Âu chỉ cho phép người sở hữu thực hiện quyền khi chứng quyền đáo hạn.

 

Nhà đầu tư có thể sử dụng chứng quyền có bảo đảm để đưa ra nhiều chiến lược đầu tư cho mình, cũng như tiến hành các phương án phòng hộ rủi ro mà thông thường sẽ không thực hiện được nếu chỉ bằng chứng khoán cơ sở. Ví dụ như trong bối cảnh thị trường Việt Nam có xu hướng chuyển động một chiều (khi thị trường tăng giá, nhà đầu tư ào ào mua cổ phiếu; còn khi thị trường giảm giá, xu hướng bán cổ phiếu luôn lấn át), chứng quyền bán sẽ giúp bù đắp hạn chế đó, tạo điều kiện nhà đầu tư tự cân bằng và kiếm lời khi giá xuống.

 

Điều kiện đối với tổ chức phát hành Covered Warrant

 

Công ty chứng khoán phát hành chứng quyền có bảo đảm thì phải thực hiện một số biện pháp nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với người sở hữu chứng quyền. Theo đó, họ sẽ phải thực hiện phòng hộ rủi ro (Cover hoặc Hedge) bằng cách mua/bán chứng khoán cơ sở hoặc giao dịch các chứng khoán tương đương khác (hợp đồng tương lai, quyền chọn…) và đây cũng là nghiệp vụ bắt buộc đối với tổ chức phát hành Chứng quyền có bảo đảm tại bất cứ thị trường nào trên thế giới.

 

Tính chất “có bảo đảm – Covered” còn được thể hiện ở nhiều mức độ mang tính chắc chắn cao hơn, đặc biệt đối với các thị trường đang phát triển, có điểm xếp hạng tín nhiệm thấp và các thành viên thị trường còn thiếu kinh nghiệm trong công tác quản trị rủi ro. Ngoài yêu cầu phòng hộ rủi ro, tổ chức phát hành tại các thị trường này còn phải nộp thêm một khoản ký quỹ (bằng tiền hoặc chứng khoán cơ sở) tại ngân hàng lưu ký khi phát hành chứng quyền có bảo đảm. Tùy theo thị trường, giá trị khoản ký quỹ cũng biến thiên từ mức ký quỹ một phần (partial collateralised) đến mức độ đảm bảo cao nhất, ký quỹ toàn phần (fully collateralised).

 

Theo Thông tư 107/2016, tổ chức phát hành chứng quyền tại Việt Nam phải ký quỹ bảo đảm thanh toán với giá trị tài sản bảo đảm ban đầu tối thiểu là 50% giá trị chứng quyền dự kiến chào bán.

 

Bên cạnh đó, khi phát hành chứng quyền có bảo đảm, tổ chức phát hành phải có Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án bảo đảm thanh toán và thực hiện các nghĩa vụ của tổ chức phát hành cũng như Điều lệ phải có điều khoản về quyền của người sở hữu chứng quyền. Vì vậy, Chứng quyền có đảm bảo còn được xem là hợp đồng giao kết giữa nhà đầu tư với tổ chức phát hành, theo đó người sở hữu chứng quyền là chủ nợ có đảm bảo một phần của tổ chức phát hành và tổ chức phát hành có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với người sở hữu.

 

Trần Vy

 


Tuyên bố trách nhiệmBài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc.